Ô Quý Hồ nối liền 2 tỉnh Lào Cai và Lai Châu (Ảnh – pursuethewind)
Ô Quý Hồ nối liền 2 tỉnh Lào Cai và Lai Châu (Ảnh – pursuethewind)
Lợn cắp nách là món đặc sản ở hầu hết các tỉnh vùng cao (Ảnh – Nguyễn Thanh Thúy RV)
Cái tên lợn “cắp nách” (một số nơi gọi là lợn lửng) là loại lợn đặc sản chỉ có ở vùng cao. Mỗi con chừng 10-15kg, con nào to cũng chỉ khoảng 20kg. Ăn thịt lợn “cắp nách” chẳng khác nào ăn thịt thú rừng mà không phạm pháp, bởi vì loài lợn này được thả vào trong rừng từ khi mới đẻ, tự kiếm ăn để sống.
Lợn “cắp nách” được ra đời từ thói quen chăn nuôi lạc hậu của bà con các dân tộc vùng cao như: Dao, Thái, Mông… Đây thực chất là giống lợn đặc trưng truyền thống chuyên thả rông chẳng phải nuôi dưỡng của đồng bào. Muốn có một đàn lợn “cắp nách” thì chỉ cần mua một đôi, gồm một con đực và một con cái, sau đó thả chúng vào khu rừng gần nhà mình. Đôi lợn đó sẽ luôn đi bên nhau, làm ổ trong rừng, tự kiếm ăn. Đến mùa sinh sản thì chúng giao phối và đẻ ra cả đàn lợn hàng chục con chỉ to hơn ngón chân cái.
Loài lợn này có sức chịu đựng rất giỏi, chúng tìm củ, rễ cây rừng nhai lá cây là có thể sống được. Lợn mới đẻ có thể chạy nhảy và kiếm ăn ngay được, chúng chỉ theo bố mẹ vài ngày rồi tự tách ra. Cả lũ lợn con đi kiếm ăn thành đàn đến khi nào trưởng thành, có thể sinh sản mới tự tách ra. Điều đặc biệt là loài lợn này tuy tự kiếm sống ở trong rừng, song chúng không bao giờ đi xa, chỉ quanh quẩn ở một khoảng cách nhất định. Có hộ thì tạo thói quen cho chúng tự về ổ do ông bà chủ làm sẵn ngay đằng sau nhà hay dưới gầm sàn. Còn những đàn lợn “ở ẩn” trong rừng thì chúng đã đánh dấu lãnh địa của mình. Muốn xem đàn lợn đã lớn chưa, người ta chỉ việc vào rừng tìm chúng hoặc ban đêm lần vào ổ của chúng để xem. Ổ được làm bằng những cành cây, lá cây khô. Muốn bắt chúng cũng rất dễ, người ta có những tiếng kêu đặc trưng để dụ chúng đến rồi bắt.
Chính vì không được nuôi dưỡng nên lợn lửng thuộc loại siêu chậm lớn, mỗi năm chúng chỉ tăng tối đa là 10kg, sau đó hầu như không tăng nữa. Chính vì ăn cỏ cây, lại chậm lớn nên thịt chúng rất thơm ngon, hầu như không có mỡ, miếng nào có một tý mỡ thì cũng không ngấy.
Thịt ba chỉ luộc lên, thái miếng rồi trộn với lá chua (Ảnh – Hoabanfood)
Lá Chua ở rừng sẵn có quanh năm, mang về giã nhỏ, thêm ớt, hạt Dổi. Trộn đều với thịt lợn, ăn tuyệt ngon mà không bị ngán. Đây là món ngon của anh chị em đồng bào Thái Trắng ở Lai Châu.
Món cá nướng của người Thái Lai Châu (Ảnh – francis.thuan)
Từ xa xưa người Thái thường định cư ở các thung lũng, ven con sông, con suối nên cá và các loại thủy sản khác luôn là nguồn thực phẩm quan trọng không thể thiếu với đời sống hàng ngày. Chính vì vậy tục ngữ Thái đã có câu: “Cáy măn mọk má ha, Báu to pa pỉnh tộp ma sú” nghĩa là: ”Gà tơ tần đem đến, không bằng cá Pỉnh Tộp đem cho”. Bởi đối với đồng bào dân tộc Thái thì cá không chỉ đơn thuần mang lại giá trị dinh dưỡng mà còn là biểu tượng của sự no đủ, sung túc và hạnh phúc.
Để làm được món cá suối nướng ngon thơm, người ta phải chọn loại cá suối tươi, béo nếu là cá chép thì càng tốt. Cá được cạo sạch vảy, không mổ đường bụng mà phải mổ sống lưng để khi nướng, úp cá lên sẽ mềm, dễ gắp. Sau khi lấy mật thì rửa sạch rồi ướp, nhồi gia vị. Cá suối thường chỉ ăn rêu, lá cây và các động vật giáp xác. Nên chúng rất sạch, cá mổ ra hầu như không có mùi tanh. Gia vị để ướp cá gồm mắc khén, rau thơm rừng, hạt sen, lá húng, củ sả, ớt, xúp, mì chính… Sau khi làm sạch vẩy, cá được mổ từ lưng để vứt bỏ mật và ruột. Mổ kiểu này khó hơn, không cẩn thận sẽ bị đứt tay nhưng khi gập cá lại để nướng, cá sẽ dai hơn và không bị vỡ, tạo thành hình đẹp.
Sau khi mổ phanh lấy dao khứa chéo phần thân ngoài cá và tẩm các gia vị chừng 4 phút rồi gập ngang cá lại rau thơm và gia vị tiếp tục nhồi vào giữa, dùng thanh tre tươi kẹp chặt và hơ nướng trên than tro củi nóng chừng 15 phút thì cá chín. Nướng cá cũng cần có kỹ thuật, không được vội vàng mà dí sát xuống than làm cháy lớp ngoài mà lớp trong chưa kịp chín thơm, phải kiên trì hơ cho chín dần, chín đều. Khi gỡ cá ra khỏi xiên chỉ cần dung sợi chỉ vuốt dọc mình cá theo chiều gắp thì miếng thịt cá còn nguyên mà không bị vỡ.
Thưởng thức miếng cá nướng vàng rộm, thơm lừng với cơm nếp xôi dẻo ta mới thấy hết cái vị ngọt béo của cá, vị cay của quả ớt đầu sàn nhà mẹ, qủa Mắc khén ven bản, màu xanh của hành, của rau thơm lẫn màu đỏ của ớt, màu vàng của cá nướng – tất cả màu sắc của bức tranh thiên nhiên ấy đã đi vào bữa ăn cụ thể của đồng bào Thái giản dị mà ngẫu nhiên.
Cá bống được bọc trong lá dong và vùi trong tro nóng (Ảnh – Hoàng Mạnh Linh)
Cá bống nơi đây thường được bắt ở các con sông, con suối, con cá bống nào to lắm mới bằng ngón tay trỏ của người lớn. Để có được món cá bống vùi gio ngon và đẹp mắt phải trải qua khá nhiều bước tiến hành kì công, đòi hỏi sự khéo léo và kinh nghiệm của người chế biến. Điều đó được thể hiện khi chọn nguyên liệu để chế biến như: Cá bống phải chọn con đều nhau, các loại gia vị sả, ớt, gừng, hạt tiêu, mắc khén … lá húng, và lá hom húng phải được băm nhỏ, lá dong phải là lá bánh tẻ, khổ to vừa không bị rách và rưả sạch để khô. Cá bống được sơ chế sạch sẽ và tẩm ướp với các gia vị đã được chuẩn bị sẵn. Sau khi ướp được chừng 15- 30 phút, chúng ta sẽ khéo léo gói gọn trong lá dong và được vùi vào trong tro nóng, khoảng 30 phút lại lật lại 1 lần, cứ như thế vài lần cá sẽ chín.
Khi thưởng thức món ăn ta sẽ nhận thấy mùi thơm đặc biệt của các gia vị núi rừng được pha trộn 1 cách hoàn hảo, vị ngậy mà không béo cuả cá, và mùi thơm nhè nhẹ của lá dong nướng. Món này vừa có thể là món nhắm rượu, vừa có thể là món ăn cùng cơm nóng hoặc xôi.
Xôi tím, một trong những màu xôi thường gặp ở vùng cao (Ảnh – Hoa Xuân)
Xôi tím được đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Thái, Dáy… làm với những bí quyết riêng. Từ những hạt gạo nếp nương thơm dẻo, hạt to đều không lẫn tẻ, hương thơm ngọt, đem vo sạch rồi ngâm trong nước lã từ 6 – 8 giờ. Màu tím đặc trưng và hấp dẫn của xôi được nhuộm bằng loại cây có tên là Khẩu cắm (loại cây này chỉ có ở miền núi). Cây Khẩu cắm bẻ cả cành, lá rửa sạch, đem luộc. Luộc lá sôi chừng năm phút, khi thấy nước chuyển sang màu tím, sánh là được. Để nước lá nguội bớt rồi chút gạo nếp vào ngâm thêm 2 đến 3 giờ. Đồ xôi tím phải đồ bằng chõ gỗ được đục từ thân cây sung, lửa củi mới có được mùi vị thơm ngon hơn cả. Đồ đến khi hạt gạo chín nục, xới từng lớp xôi thấy màu tím tươi, bóng, hạt xôi dẻo mà không dính, có mùi thơm ngào ngạt là đã hoàn thành quy trình nấu xôi. Ngoài hương vị thơm ngon, ngậy mà không ngán, xôi tím còn hấp dẫn bởi màu sắc và chất của loại lá cây rừng. Theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc ở Lai Châu, cây Khẩu cắm dùng đồ xôi còn có tác dụng chữa bệnh đường ruột và bồi bổ sức khỏe rất tốt.
Nếu có dịp đến với các phiên chợ như chợ Dào San, chợ Sìn Hồ, hay chợ San Thàng… du khách sẽ ấn tượng với hình ảnh những cô gái dân tộc gùi những gùi xôi xuống chợ bán, quanh mình tỏa ra mùi thơm dẻo của gạo nếp nương và đặc biệt là màu tím đặc trưng vô cùng hấp dẫn. Thư thái ngồi bên bếp lửa thưởng thức xôi tím với cá nướng Pa pỉnh tộp hay miếng chả quế, thực khách sẽ cảm nhận được cả dư vị của núi rừng
Thịt lợn được tẩm ướp và làm chín bằng hơi nóng trên bếp củi, khói sẽ làm cho miếng thịt có màu đẹp hơn (Ảnh – Thuy Hoang)
Thịt lợn hun khói là một món ăn truyền thống của một số dân tộc vùng cao nói chung và người Pu Nả nói riêng. Thịt lợn hun khói không phải lúc nào cũng làm được, mùa nào cũng làm được mà làm thịt hun khói có mùa và phải làm đúng mùa, vì nếu làm trái mùa thịt sẽ bị ôi. Mùa làm thịt hun khói tốt nhất ngon nhất là mùa đông.
Khi mổ xong con lợn, người ta phanh con lợn ra, rồi lấy bộ lòng dội nước rửa sạch con lợn, không để một tý tiết còn dính vào thịt. Sau đó lấy dao dọc thịt lợn theo xương sườn thành miếng dài. Cứ mỗi xương sườn một miếng. Các miếng thịt dọc ra trước khi ướp không được dính nước lã và ướp ngay khi thịt còn nóng. Khi ướp xong cho vào chảo to hoặc chiếc thùng gỗ để ướp từ 5 đến 7 ngày mới bỏ ra để treo lên gác bếp sấy. Sấy đến khi nào thấy miếng thịt thật khô và mỡ bắt đầu chảy xuống là được. Các hương vị và gia vị để ướp thịt gồm có: Muối biển rang khô; Ớt quả khô; Thảo quả khô, nướng; Hạt tiêu rừng “Lậc cheo”; Quả mắc khén phơi khô, tất cả đều phải giã nhỏ.
Măng nộm hoa ban (Ảnh – Loan Ỉn)
Nếu ai đã có dịp ghé qua các bản làng người Thái ở Lai Châu sẽ không chỉ biết đến một truyền thuyết đầy cảm động về Hoa Ban – Măng Đắng mà còn được thưởng thức một món ăn có chứa đủ vị: đắng, chua, cay, mặn, ngọt, bùi của món Măng nộm hoa ban.
Măng có rất nhiều loại, loại nào cũng dùng làm nộm được nhưng ngon nhất thì có măng nứa và măng đắng. Măng đắng cần sắt nhỏ ngâm nước muối 30 phút sau đó luộc 2 lần rồi vớt ra để ráo, còn nếu là măng nứa đem luộc rồi tước nhỏ. Hoa ban cần chọn những bông tươi, ngắt lấy những cánh hoa dày để dùng. Tiếp theo cần chọn được một con cá suối tươi ngon, mình dày, đem nướng trên than củi, gỡ lấy thịt. Sau đó pha hỗn hợp nước trộn chanh, tỏi, ớt, rau húng và rau mùi đã thái nhỏ. Cuối cùng trộn nhẹ nhàng đều tay măng, hoa ban, cá và nước trộn. Tất cả hoà quyện tạo nên một hương vị đặc trưng của núi rừng, gắp từng miếng nộm du khách cảm nhận được vị đậm đà, thơm nồng của cá nướng, vị bùi bùi, ngầy ngậy của hoa ban, và vị đăng đắng của măng tươi.
Món nộm rau dớn của người Thái Lai Châu (Ảnh – Bồ Công Anh)
Nộm rau dớn là món ăn đặc trưng của người Thái ở Lai Châu nói riêng và đồng bào Tây Bắc nói chung. Rau dớn người Thái gọi là “pắc cút”, loại cây thuộc họ quyết, giống như cây dương xỉ, thân to, tán lá rộng, mặt lá có màu xanh nhẵn. Loại cây này chỉ mọc ở bờ suối, khe suối, nơi có độ ẩm cao.
Để làm được món nộm rau dớn vừa ngon, vừa mang hương vị đặc trưng của dân tộc Thái, người ta thường chỉ hái những ngọn rau dớn cong non, là bánh tẻ, sau đó rửa sạch, phơi nắng cho tái. Tiếp đó cho rau dớn vào chõ xôi bằng gỗ để đồ, sau khoảng thời gian 20 phút. Để rau chín và giữ được màu xanh. Ở công đoạn này, nhất thiết rau dớn phải đồ chứ không nên luộc để giữ vị bùi bùi, ngọt ngọt của món nộm. Khi rau đã đồ chín, bỏ rau vào bát to, cho rau thơm, ớt, gừng, tỏi, nước chanh tươi, mì chính và muối trắng trộn đều. Để khoảng 5 phút cho ngấm gia vị, sau đó cho lạc rang giã nhỏ vào là có thể ăn ngay được. Món nộm rau dớn khi ăn sẽ cảm nhận được mùi thơm đặc trưng của các loại rau, vị bùi của rau dớn, vị chua ngọt xen lẫn một chút vị cay của ớt.
Rêu đá không chỉ phổ biến ở Lai Châu mà còn thấy ở hầu hết các tỉnh phía Bắc, nhất là nơi có người Thái sinh sống (Ảnh – Thanh Tuyền)
Rêu đá được chế biến thành nhiều món ăn truyền thống của đồng bào Thái Tây Bắc và nó trở nên đặc biệt hơn trong mâm rượu hứa hôn của các đôi trai gái. Để có được những món rêu ngon đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn, trước tiên cần vớt rêu cho vào rổ, giặt qua nước sạch nhằm loại bỏ cát và các chất bẩn, bỏ lên một tảng đá to, hoặc thớt rồi dùng một khúc gỗ to để đập, cứ làm như thế vài lần thì rêu mới sạch được như ý. Rêu đá khi đã qua sơ chế sẽ có màu xanh đậm, sờ vào mềm và mát. Qua những bước sơ chế cơ bản, rêu được chế biến thành nhiều món khác nhau như canh rêu đá, rêu nướng và rêu xào lá tỏi.
Rêu nộm thường lấy rêu non, cho vào chõ đồ xôi, đồ vừa chín tới, trộn cùng bột canh, mì chính và các gia vị, gừng, mùi, mắc khén, nếu thích ăn cay cho thêm quả ớt nướng giã nhỏ.
Để làm món rêu nướng, sau khi sơ chế và vắt hết nước, đem tẩm với các gia vị như sả, gừng, bột ớt, hạt dổi, quả muối, hạt sẻn…rồi được gói vào lá dong và vùi trong tro nóng, bên trên phủ một lớp than hồng. Khi vùi than cần phủ đều để giữ sao cho rêu chín đều mà không bị cháy. Đợi đến khi lớp lá bên ngoài chuyển thành màu đen thì người ta mới lấy ra rồi bóc từng lớp lá. Mùi thơm của gia vị cùng mùi nồng nồng của rêu đá tạo nên một hương vị rất riêng, trông giống như tảo biển, mềm, ngậy ăn với cơm nóng thì ngon tuyệt. Theo kinh nghiệm dân gian, ăn rêu đá vùi than thường xuyên giúp cơ thể lưu thông khí huyết, giải độc, giải nhiệt, hạ huyết áp và nhiều chứng bệnh mãn tính khác.
Các bạn thường thấy nhất món xôi trứng kiến (Ảnh – Hang Le)
Nếu như trước đây, trứng kiến được người dân sử dụng như một thực phẩm để tăng thêm dưỡng chất, chống đói và thiếu thức ăn thì giờ đây những kinh nghiệm dân gian xưa được truyền lại, trứng kiến trở thành sản phẩm đắt giá và được những người sành ăn tìm kiếm. Trước đây, trứng kiến chỉ có trong mùa thu hoạch trứng kiến (đầu mùa xuân hoặc vào mùa mưa) thì nay trứng kiến được các nhà hàng bảo quản kỹ bằng cách xôi chín và để đóng đá, bất kể khi nào có khách đặt là làm rã đông và chế biến.
Đến các làng bản ở Lai Châu trong mùa mưa này, du khách có dịp thưởng thức đủ các món chế biến từ trứng kiến như: Trứng kiến ướp gia vị trong lá dong, lá chuối và nướng trên bếp than hồng, hoặc món trứng kiến đồ cùng xôi nếp nương, làm nộm với lá chua chát, nấu canh ngọt dịu… cùng với những món ăn khác món trứng kiến trở thành món ăn không thể thiếu ở các bản làng văn hóa vùng cao.
Bánh đen Sìn Hồ (Ảnh – Tẩn Mỹ Thùy)
Bánh đen được làm từ gạo nếp và cây màng tang, nhân bánh sử dụng thịt ba chỉ được trộn với thảo quả và mắc khén, tất cả được gói bằng lá mây.
Khau nhục là món ăn truyền thống thường thấy của người Tày (Ảnh – Trang Milk)
Nếu có cơ hội ghé thăm bản người Nùng ở Tam Đường và được thưởng thức một bữa cơm với các món ăn truyền thống của dân tộc Nùng, chắc hẳn sẽ có món “khâu nhục”, một trong những món ăn hấp dẫn bậc nhất khiến bạn không thể quên.
Mặc dù có nguồn gốc từ Trung Hoa nhưng cùng với thời gian và đặc biệt là sự “Biến tấu” cho phù hợp với văn hóa ẩm thực của người Nùng, món khâu nhục đã mang được nét độc đáo rất riêng. Về cơ bản khâu nhục là hầm cách thủy thịt ba chỉ trong thời gian dài, nhưng cách chế biến khá phức tạp và nhiều công đoạn.
Lá đắng dùng để nấu cùng canh tiết (Ảnh – Tên Chí Linh)
Ở Lai Châu có một đặc sản, đó là món canh tiết lá đắng. Phải thưởng thức món ăn này bạn mới có thể cảm nhận được nét độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực của vùng đất này. Trước kia, khi món ăn này chưa phổ biến, để tìm được lá đắng về làm canh không phải đơn giản, bởi thứ cây này chỉ mọc ở nơi ven rừng, khe suối. Thường thì chỉ khi có khách quý, chủ nhà mới đi lên rừng tìm lá về nấu canh như một sự thể hiện lòng thân tình, mến khách. Bây giờ, bà con vùng này đã mang cây về trồng tại vườn nhà, trên nương, trên rẫy, bạn có thể mua được lá vào mỗi dịp chợ phiên.
Nguyên liệu và cách nấu canh lá đắng cũng thật đơn giản. Chỉ cần ít phổi lợn băm nhỏ, một miếng tiết và vài thứ rau thơm cùng với nắm lá đắng (có thể lá tươi hoặfc đã phơi khô) vò nát, sau đó đun nước sôi cho tất cả nguyên liệu vào nấu chín kỹ là bạn đã có một bát canh lá đắng thơm ngon để thưởng thức. Nếu ai lần đầu nếm món canh này sẽ cảm thấy khó ăn bởi vị đắng, chát tê đầu lưỡi, nhưng chính vị đắng đó lại đánh thức vị giác của bạn khiến bữa ăn ngon miệng hơn. Tiếp tục thưởng thức, canh lá đắng lại mang lại vị ngọt, bùi, thơm ngậy đến kỳ lạ. Không chỉ là một món ăn ngon, canh lá đắng còn có tác dụng giải rượu và chữa được bệnh về tiêu hóa.
Bánh dày giã tay của người Mông, khi ăn đem rán giòn lên nhé (Ảnh – Vợ Bốp Xăm)
Theo quan niệm của người Mông bánh dày là biểu tượng của mặt trăng, mặt trời, tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở của vũ trụ bao la. Bên cạnh đó chiếc bánh còn là biểu tượng của sự trong trắng, lòng chung thủy, son sắc của người phụ nữ Mông như một vòng tròn khép kín. Người Mông thường làm bánh dày vào dịp tết và các lễ hội. Dâng lên bàn thờ tổ tiên để bày tỏ lòng thành kính của mình, với ước mong các đấng linh thiêng phù hộ cho đôi chân to khỏe, để có thể vượt núi, chèo đèo, phát nương làm rẫy. Phù hộ cho mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Khi thưởng thức người ta cắt thành từng lát bánh, sau đó đem dán bằng mỡ lợn. Chiếc bánh được dán phồng lên, cũng là lúc mùi thơm của gạo nếp nương, hòa quyện mùi thơm dịu của trứng gà, mùi ngậy béo của mỡ lợn lan tảo khắp gian bếp nhỏ, tạo nên một món ăn vô cùng hấp dẫn.
Món bánh chưng đen (Ảnh – Haisan Vananh)
Bánh chưng đen (Rùa Chía). Bánh chưng của người Dao gói tròn, dài khoảng 30cm, có thể dùng gạo nếp trắng hoặc nếp cẩm để gói, khi gói bánh chưng người ta thường trộn than cây màng tang giã nhỏ để có vị thơm ngon đặc sắc. Nhân bánh là dải thịt mỡ thái dài dính với bột thảo quả, để khi bánh chín mỡ ngấm đều vào bánh khi ăn có vị béo ngậy rất ngon miệng.
Lòng lợn nhồi với gạo nếp là món ăn thường thấy trong dịp Tết ở Sìn Hồ (Ảnh – FView TV)
Món lòng lợn nhồi gạo nếp (tùng càng nhảng). Món này trộn tiết sống lẫn với thảo quả giã nhỏ, luộc chín tới vớt ra ăn ngay hoặc để ăn dần trong mấy ngày tết. Ở Sìn Hồ tiết trời xuân se se lạnh, món này để lâu cũng không bị hỏng. Khi ăn luộc chín lại cho nóng.
Dưa mèo trông gần giống như dưa chuột xưới duôi nhưng to hơn (Ảnh – Vui Vũ)
Dưa mèo là cách gọi thông thường của người dân ở Lai Châu về một loại dưa do người dân tộc Mông ở nơi “cuối trời Tây Bắc” này trồng, thu hái và đưa xuống chợ, ven đường bán “chơi” với giá 10.000 đồng/1kg. Bên ngoài và bên trong quả dưa mèo giống quả dưa chuột. Tuy nhiên quả dưa mèo to, dài hơn quả dưa chuột. Quả dưa mèo to nhất nặng đến hơn 1kg, quả nhỏ nhất cũng nặng tới chừng gần nửa cân. Vỏ quả trơn bóng, có màu xanh sáng xen lẫn những viền xanh mờ. Ruột quả màu trắng, cùi dày, nhiều hạt mềm…
Rượu ngô Sùng Phài hay còn gọi là rượu Mông Kê (Ảnh – Lieu Thuoc Trai Tim)
Rượu Mông kê (Rượu Sùng Phài) một đặc sản độc đáo, đậm đà bản sắc của đồng bào dân tộc người Mông Thuộc tỉnh Lai Châu. Rượu Mông Kê sản phẩn truyền thống chất lượng hảo hạng bởi: – 100% hạt ngô nếp được tuyển chọn và lên men bằng lá và hạt kê thuốc ( thực tế một loại hạt thuốc bắc nhìn giống hạt kê chuyên dùng để chữa trị xương khớp và đường tiêu hóa ) – Nguồn nước Sùng Phài, Lai Châu và phương thức bí truyền ngàn năm của đồng bào dân tộc người Mông tạo lên hương vị thơm ngon, êm dịu đặc trưng vô cùng khó quên của rượu Mông kê. – Quy trình sản xuất từ khâu chọn giống ngô, nguồn nước, quá trình ủ lên men và trưng cất đều đảm bảo tuân thủ chặt chẽ theo nguyên tắc truyền thống bí truyền. – Sau khi được chưng cất, rượu được khử, lọc loại bỏ andehit, độc tố và các loại tạp chất trên dây truyền hiện đại sau đó hạ thổ từ 2 năm trở lên. – Vì vậy uống rượu Mông kê có tác dụng kích thích tiêu hóa ăn ngon miệng, bồi bỏ xương khớp và lưu thông khí huyết. – Uống rượu Mông Kê không gây phản ứng đau đầu,không gây mệt mỏi sau khi uống, đặc biệt phù hợp với các bưa ăn, tiệc liên hoan có nhiều thức ăn chứa nhiều đạm và chất béo như các đồ hải sản, thịt chó, đồ lẩu, đồ nướng…
Hạt dổi rừng (Ảnh – Đoàn Thị Thắm)
Được xem như là đặc sản của vùng núi cao Tây Bắc nói chung và Lai Châu nói riêng, hạt dổi rừng là một trong những loại gia vị đặc biệt thơm ngon và quý hiếm của người dân vùng cao. Dổi là loại cây thân gỗ, mọc thẳng đứng ưa ánh sáng, rất ít cành và là cây lâu năm. Có nhiều loại, loại chỉ lấy gỗ làm nhà thường được gọi là dổi tẻ có hạt rất cứng và mùi hắc không ăn được, còn loại mà cho hạt thơm là dổi nếp hay được bà con vùng dân tộc dùng làm gia vị thì ít và hiếm hơn.
Óc chó giờ đã trở thành một món đặc sản của vùng cao Sìn Hồ (Ảnh – Trần Vũ Hạnh Nguyên)
Hạt óc chó vốn được biết đến là thần dược cho não. Óc chó Sìn Hồ quả không được đều tăm tắp như của Trung Quốc, nhiều hạt do quá trình phơi chưa làm sạch được hết vẫn còn dính chút thịt quả nhưng mà chất lượng hạt thì khá bùi và ngậy.
Rượu nếp than hay còn có cái tên khác: “rượu nếp cẩm” là một đồ uống quen thuộc của người dân Tây Bắc nói chung và người Lai Châu nói riêng. Đây là loại rượu độc đáo không cần chưng cất mà chỉ ủ. Bên cạnh đó rượu nếp than còn là bài thuốc chữa bệnh, giúp tăng cường sức đề kháng và làm đẹp da.
Mật ong được người khai thác đựng vào các túi nilon để tránh bị rớt mật ra ngoài (Ảnh – Hà Hoàng)
Mật ong Mường Tè là sản vật đặc trưng, hiếm có ở Lai Châu được khai thác trong những khu rừng thuộc khu bảo tồn Thiên nhiên Mường Tè. Mật ong Mường Tè có mùi thơm tự nhiên đặc biệt khác so với các loại mật ong khác. Mùa vào rừng lấy mật ở Mường Tè thường diễn ra từ tháng 3-10 hàng năm
Một thác nước nằm sâu trong rừng già Lai Châu (Ảnh – earth_._experience)
Với những thông tin ở trên, chắc các bạn cũng đã có những thông tin cơ bản về du lịch Lai Châu và lựa chọn cho riêng mình những kế hoạch để đến với vùng đất này. Cùng Phượt xin gợi ý cho các bạn một số lịch trình cơ bản để kết hợp du lịch Lai Châu với những vùng khác.
Đi tàu hoặc xe khách giường nằm từ Hà Nội lên Sapa, bạn có thể lựa chọn mang xe máy từ Hà Nội hoặc lên đến Sapa thì thuê xe tại Sa Pa để di chuyển tiếp sang Lai Châu.
Ngày 1 : Sapa – Tp Lai Châu – Phong Thổ (120km)
Chạy xe máy từ Sapa đi theo quốc lộ 4D đi Lai Châu, trên đường đi có thể tham quan một số địa điểm như Thác Bạc, Đèo Ô Quý Hồ
Tới Thị xã Lai Châu có thể đi thăm một số bản du lịch cộng đồng, thăm quần thể hang Pu Sam Cáp. Qua Thị trấn Tam Đường vào tham quan thác Tác Tình
Đi dọc quốc lộ 4D đến Thị trấn Phong Thổ thì chuyển sang Quốc lộ 12 lên cửa khẩu Ma Lù Thàng, xin phép Biên phòng để tham quan cụm mốc từ 64 – 66 ở khu vực xã Ma Ly Pho
Tối quay về ngủ tại Thị trấn Phong Thổ
Từ Thị trấn Phong Thổ đi theo quốc lộ 12 về Sìn Hồ. Qua khu vực xã Nậm Ban và Pa Tần của Sìn Hồ có thể liên hệ với đồn biên phòng gần nhất để hỏi đường tham quan các cột mốc từ 51-54 (nếu có thời gian)
Tắm thuốc người Dao và nghỉ ngơi 1 đêm tại Sìn Hồ
Ngày 3 : Sìn Hồ – Lai Châu – Sapa – Hà Nội
Từ Sìn Hồ đi ngược về Tp Lai Châu, tiếp tục qua đèo Ô Quy Hồ về Sapa, dạo chơi quanh Sapa. Trả xe máy rồi lên ô tô hoặc tàu hỏa về Hà Nội
– Đi xe giường nằm từ Hà Nội lên Điện Biên – Gửi xe máy theo ô tô
Ngày 1 : Điện Biên – Mường Chà – Mường Nhé – Đồn 317
– Sáng sớm có mặt ở Điện Biên. – Thăm quan một số điểm du lịch như Hầm Đờ Cát, Đồi A1, Nghĩa trang đồi A1 trong khoảng 1 tiếng. – Đi thẳng từ Điện Biên vào Mường Nhé (200km) – Có thể lựa chọn nghỉ ngơi tại Mường Nhé (nếu đi vào các dịp lễ đông như 30-4) hoặc vào thẳng đồn 317 ngủ.
Ngày 2 : Đồn 317 – Mốc 0 – Đồn 317 – Mường Nhé
– 8h sáng dậy ăn sáng, chuẩn bị đồ mang theo dọc đường và đồ ăn trưa để leo mốc – Khoảng 10h tới mốc 0, dừng chụp ảnh và ăn trưa. Thời gian tùy thuộc vào khả năng leo núi của từng đoàn – 11h từ mốc 0 trở về, khoảng 12h-13h sẽ về tới đồn 317 – Thu dọn đồ đạc và chạy ngược ra Mường Nhé rồi đi tiếp về Mường Lay nghỉ ngơi.
– Đến khu vực xã Chăn Nưa thì rẽ theo TL 128 đi Sìn Hồ – Tối nghỉ ngơi tại Sìn Hồ – Đừng quên đi tắm lá thuốc để xóa tan mệt mỏi mấy ngày vừa qua. Tối nghỉ ngơi tại Sìn Hồ
Ngày 4 (Lựa chọn 1) : Sìn Hồ – Lai Châu – Tam Đường – Bình Lư – Mù Cang Chải (Thích hợp nếu đi vào mùa lúa chín)
– Sáng dây có thể đi chơi chợ Sìn Hồ nếu đúng ngày chợ họp, lên Đài tưởng niệm chụp ảnh toàn cảnh Sìn Hồ – Từ Sìn Hồ đi về Thị xã Lai Châu, qua Tam Đường tới ngã 3 Bình Lư thì rẽ đi Than Uyên -> Mù Cang Chải. Nếu thời tiết đẹp thì sẽ được ngắm mây Sìn Hồ. – Nếu về sớm có thể tranh thủ đi chơi quanh Mù Cang Chải – Tối ngủ và ăn uống tại Mù Cang Chải
Ngày 4 (Lựa chọn 2) : Sìn Hồ – Lai Châu – Tam Đường – Bình Lư – Sapa
– Sáng dây có thể đi chơi chợ Sìn Hồ nếu đúng ngày chợ họp – Từ Sìn Hồ đi về Thị xã Lai Châu, qua Tam Đường tới ngã 3 Bình Lư thì rẽ đi đèo Ô Quy Hồ -> Thị trấn Sapa – Tối nghỉ ngơi và chơi tại Sapa
Ngày 5 (Lựa chọn 1) : Mù Cang Chải – Tú Lệ – Nghĩa Lộ – Hà Nội
– Phương án 1 : Dạo chơi Thị trấn Mù Cang Chải, rồi về Tú Lệ ăn trưa sau đó chạy thẳng về Hà Nội – Phương án 2 : Dành nguyên 1 ngày để chơi ở Mù Cang Chải, La Pán Tẩn, Chế Cu Nha, Đèo Khau Phạ rồi nửa đêm gửi người và xe máy theo xe khách Lai Châu về Hà Nội
Ngày 5 (Lựa chọn 2) : Sapa – Hà Nội
– Dành trọn 1 ngày để du lịch Sapa kết hợp với nghỉ ngơi lấy sức – Tối gửi người + xe máy về Hà Nội bằng tàu hỏa hoặc ô tô
Siêu mẫu Thanh Hằng gây bất ngờ cho người hâm mộ khi trở thành đại sứ của thương hiệu dược mỹ phẩm Nhật Bản - Sakura. Cùng nghe Thanh Hằng trải lòng về cương vị mới nhân ngày 8/3.
Siêu mẫu Thanh Hằng, người nổi danh trong giới bởi đôi chân dài “miên man” 1m12. Không chỉ sở hữu vóc dáng siêu mẫu, cô còn được biết đến là một người phụ nữ độc lập, cá tính, mạnh mẽ và tự tin.
Mới đây, Thanh Hằng chính thức nhận lời trở thành đại sứ thương hiệu của Dược mỹ phẩm Sakura tại thị trường Việt Nam. Cô chia sẻ: “Đại sứ thương hiệu là người đại diện nhãn hàng không chỉ về mặt hình ảnh mà còn bởi sự tương đồng giữa tính cách bản thân và thương hiệu. Hằng chọn Sakura bởi cái tâm của nhãn hàng này đối với phụ nữ Việt”.
Thanh Hằng giải thích, dù là nhãn hàng dược mỹ phẩm còn non trẻ ở xứ sở Phù Tang, Sakura với sứ mệnh mang đến sắc đẹp, sức khoẻ và hạnh phúc cho mọi người, có mặt tại Việt Nam từ 2014, Dược mỹ phẩm Sakura đã được hàng triệu phụ nữ Việt sử dụng và tin tưởng. Lấy quy luật của sự “tái sinh” làm triết lý thương hiệu, Sakura luôn quan niệm người phụ nữ đẹp là người phụ nữ toát ra những khí chất của sự tự tin, khoẻ mạnh từ sâu bên trong.
Làn da phụ nữ như những cánh hoa anh đào, tinh khôi, thuần khiết, quyến rũ nhưng cũng mau phai tàn. Chính vì vậy làn da đó cần được nâng niu, chăm sóc từ đầu. Sakura muốn những cánh hoa ấy luôn kiêu hãnh bất chấp thời gian.
Sakura hướng đến vẻ đẹp khoẻ tự nhiên, làn da đẹp chính là làn da khoẻ từ bên trong chính vì vậy hầu hết thành phần trong sản phẩm Sakura đều được chắt lọc từ các thảo dược an toàn thiên nhiên quý hiếm xứ Phù Tang như chiết xuất hoa anh đào, chiết xuất trà xanh, cám gạo… và không lạm dụng các thành phần hoạt chất hoá học có hại cho da, tạo điều kiện cho da phục hồi trẻ khoẻ, đánh thức nét thanh xuân của mỗi người.
Mang trong mình triết lý của người Nhật, Sakura luôn đặt khách hàng làm trung tâm của sự phục vụ và lấy sự hài lòng của khách hàng làm mục tiêu phát triển.
“Hằng biết tới Sakura từ cách đây khá lâu thông qua vài người bạn là bác sĩ da liễu. Họ là những người đã sử dụng và tin tưởng các sản phẩm của thương hiệu này và đôi lần tặng Hằng dùng thử. Mối “lương duyên” bắt đầu hình thành từ cách đây vài tháng, khi đại diện nhãn hàng ngỏ ý mời Thanh Hằng đại diện cho Thương Hiệu tại thị trường trong thời gian sắp tới. Sở dĩ Hằng tin tưởng Dược mỹ phẩm Sakura bởi các sản phẩm được sản xuất tại Nhật Bản theo tiêu chuẩn an toàn cao nhất của Bộ Y tế Nhật Bản cũng như FDA Hoa Kỳ”.
Sakura là thương hiệu dược mỹ phẩm Nhật Bản được thành lập năm 2012 bởi đội ngũ chuyên gia, bác sĩ cố vấn người Nhật. Các dòng sản phẩm của hãng hướng tới vẻ đẹp bền lâu nhờ chiết xuất thiên nhiên, với 80% sản phẩm có thành phần chiết xuất hoa anh đào.
Tại thị trường Việt Nam, Sakura hiện có 15 showroom trên toàn quốc cùng hàng trăm đại lý khắp các tỉnh thành. Sau gần 10 năm có mặt trên thị trường, Sakura đã đem đến các giải pháp làm đẹp kiểu Nhật hoàn toàn khác biệt cho hàng triệu phụ nữ Việt.
“Hằng tin tưởng Dược mỹ phẩm Sakura bởi các tổ chức uy tín như Bộ Y tế Nhật Bản hay FDA chứng nhận chất lượng”.
SIÊU MẪU THANH HẰNG CHIA SẺ BÍ KÍP NGỪA MỤN CHO DA
Sakura CC cream - Kem nền chống nắng che khuyết điểm
Đại học Công nghệ Bắc Kinh ( tiếng Trung giản thể : 工业 ; tiếng Trung phồn thể : 北京 工業 ; bính âm : Běijīng Gōngyè Dàxué ), còn được gọi là Đại học Bách khoa Bắc Kinh ), được công nhận là một trong những trường đại học Dự án 211 . Trường đã thiết lập một cấu trúc học thuật đa ngành, cung cấp nhiều chương trình và tham gia vào nghiên cứu đa dạng trong các lĩnh vực Khoa học , Kỹ thuật , Kinh tế , Quản lý , Nghệ thuật tự do và Luật.
Tên tiếng Việt: Đại học Công nghệ Bắc Kinh
Tên tiếng Anh: Beijing University of Technology
Trang web trường tiếng Trung: http://www.bjut.edu.cn/
Trang web trường tiếng Anh: http://english.bjut.edu.cn/
Địa chỉ tiếng Trung: 北京市朝阳区平乐园100号
Địa chỉ tiếng Việt: Số 100 đường Pingle, quận Triều Dương, Bắc Kinh
Đại học Công nghệ Bắc Kinh được thành lập năm 1960 với năm khoa kỹ thuật. Nhóm sinh viên đầu tiên được chuyển từ Học viện Công nghệ Bắc Kinh và Đại học Sư phạm Bắc Kinh.
Năm 1981, Đại học Công nghệ Bắc Kinh thành lập trường sau đại học, năm 1985, trường bắt đầu cấp bằng Tiến sĩ với tiêu chuẩn quốc tế.
Năm 1990, Công nghệ Bắc Kinh mua lại Trường Cao đẳng Kinh tế và Quản lý từ Đại học Liên minh Bắc Kinh, và sau đó vào năm 1993, Học viện Máy tính Bắc Kinh trở thành Trường Cao đẳng Khoa học Máy tính như một phần của trường đại học. Năm 1993, Công nghệ Bắc Kinh đã thành lập Trường Cao đẳng Thực nghiệm bằng cách hợp tác với doanh nghiệp địa phương, sau này trở thành trường cao đẳng độc lập. Trong nhiều thập kỷ, khoa học xã hội đã đóng một vai trò quan trọng trong đó. Đặc biệt, thành tựu của các khoa trong lĩnh vực Kinh tế, Luật và các ngành khoa học xã hội khác đã chỉ ra rằng trường đại học này đã được thay đổi thành một trường đại học toàn diện trên thực tế với nhiều trường và cao đẳng kỹ lưỡng. Thành tựu nhất chủ yếu tập trung vào nghiên cứu kỹ thuật và giáo dục.
Đại học Công nghệ Bắc Kinh nằm ở phía đông nam Bắc Kinh. Khuôn viên có diện tích khoảng 800.000 mét vuông với 4.940.000 mét vuông không gian sàn.
Thư viện chính của Công nghệ Bắc Kinh là một khu phức hợp hiện đại chiếm diện tích sàn hơn 20.000 mét vuông. Thư viện chứa khoảng 700.000 tài liệu in, 60.000 sách điện tử, hơn 40 loại tài nguyên cơ sở dữ liệu, tạo thành một hệ thống tài nguyên tài liệu đáp ứng nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu. Thư viện cũng hợp tác với Thư viện Thủ đô Bắc Kinh và Trung tâm thông tin của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp cho sinh viên và giảng viên.
Công nghệ Bắc Kinh đã được chọn để tổ chức các cuộc thi cầu lông của Thế vận hội Olympic Bắc Kinh 2008 , một môn thể dục thể thao mới đã được hoàn thành vào tháng 9 năm 2007 và đáp ứng các yêu cầu của Ủy ban Olympic quốc tế.
Có hơn 21.000 sinh viên theo học tại Công nghệ Bắc Kinh trong đó có khoảng 13.000 sinh viên đại học, hơn 8.000 là sinh viên thạc sĩ, khoảng 1000 là sinh viên tiến sĩ và 500 là sinh viên quốc tế. Ngoài những sinh viên này, có hơn 10.000 sinh viên giáo dục thường xuyên.
Đại học công nghệ Bắc Kinh là một trường đại học trọng điểm thuộc thẩm quyền của Chính quyền thành phố Bắc Kinh. Trường có các trường cao đẳng (khoa) sau đây:
Trường đại học toán ứng dụng và khoa học vật lý
Cao đẳng kiến trúc và quy hoạch đô thị
Trường Cao đẳng Kinh tế và Quản lý (bao gồm: Khoa Luật)
Cao đẳng kỹ thuật thông tin và điều khiển
Cao đẳng năng lượng và kỹ thuật môi trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Khoa học Đời sống và Kỹ thuật Sinh học
Trường cao đẳng kỹ thuật cơ khí và công nghệ điện tử ứng dụng
Trường đại học khoa học vật liệu và kỹ thuật
Viện Kỹ thuật Laser (Trung tâm Công nghệ Laser Quốc gia)
Cao đẳng Gengdan (Cao đẳng độc lập)
Cao đẳng thực nghiệm (Cao đẳng độc lập)
Fan Gongxiu Honors College của Đại học Công nghệ Bắc Kinh
Cao đẳng quốc tế Bắc Kinh Dublin
1, Ngành học trọng điểm quốc gia:
2, Ngành học trọng điểm Bắc Kinh:
3, Các môn học hạng nhất quốc gia và các môn học công nghệ cao của Bắc Kinh
Nhóm kỷ luật hạng nhất: Kỹ thuật môi trường và xây dựng thành phố hiện đại bao gồm:
Xây dựng dân dụng (Kỷ luật hàng đầu)
Kỷ luật và Kỹ thuật môi trường (Kỷ luật cốt lõi)
Kỹ thuật Giao thông vận tải (Kỷ luật cốt lõi)
Vật liệu tiên tiến và công nghệ thông tin thế hệ tiếp theo (các ngành hỗ trợ)
Các ngành hàng đầu của Bắc Kinh:
Khoa học và Kỹ thuật điều khiển
HỌC BỔNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ BẮC KINH
Học sinh, sinh viên là công dân Việt Nam có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe tốt
Tôn trọng các quy định về pháp luật cũng như truyền thống văn hoá của Trung Quốc và của trường theo học.
LƯU Ý: 1. Nếu học sinh đang học lớp 12 chưa nhận bằng tốt nghiệp, có thể thay bảng điểm bằng bảng điểm tạm thời tính đến hết học kì 1 lớp 12, và thay bằng tốt nghiệp bằng giấy chứng nhận là học sinh của trường đang theo học ( Công chứng và dịch thuật)
Tham khảo thêm: Thành phố Bắc Kinh